Đăng Nhập

Vui lòng khai báo chính xác tên truy cập và mật khẩu!

Quên mật khẩu?

    Hướng dẫn xóa DNS

      Tony Stark

      Giới tính : Nam

      Tuổi : 31

      Đến từ : Cần thơ

      Ngày Tham gia : 10/01/2012

      Tổng số bài gửi : 750

      #1

       Sun Jan 22, 2012 10:07 am

      Khi lướt web, một vấn đề có thể
      nảy sinh bất kì khi nào là người dùng nhận được rất nhiều lỗi DNS hoặc
      lỗi 404 trong trình duyệt web mặc dù kết nối mạng vẫn hoạt động bình
      thường.
      Trong trường hợp này, việc học cách xóa DNS cho hệ điều
      hành máy tính là điều cốt lõi để phục hồi chính xác chất lượng dịch vụ
      cho khả năng duyệt web của máy tính. Hoạt động xóa DNS sẽ giúp loại bỏ
      địa điểm và tên của các trang web đã lưu hoặc cache trên máy tính. Điều
      này có thể ảnh hưởng tới tốc độ khi truy cập lại vào trang web (chậm
      hơn) nhưng nó sẽ giảm thiểu được những lỗi khi duyệt web xuất phát từ
      entry đang bị lỗi.
      DNS là gì?


      Domain Name System (DNS) là một hệ thống
      cơ sở dữ liệu có thể dịch ngôn ngữ thuần của địa chỉ web hoặc địa chỉ
      URL sang địa chỉ IP. Hệ thống này được tạo do việc nhớ tên miền (ví dụ [You must be registered and logged in to see this link.])
      dễ dàng hơn nhiều khi phải nhớ địa chỉ IP. Về cơ bản, bất kì máy tính
      nào trong mạng cục bộ đều có ít nhất một server đóng vai trò quản lý
      truy vấn DNS, thực hiện công việc cache hoặc tìm kiếm nhanh chóng để
      giảm thiểu thời gian cần thiết để tìm miền. Nếu server cục bộ không lưu
      trữ tên miền, nó sẽ yêu cầu nhận diện từ tên server tiếp theo và tiếp
      tục như vậy.

      Hướng dẫn xóa DNS DNS2

      Bản ghi của DNS


      Trước khi DNS được sáng tạo vào năm
      1982, ý tưởng sử dụng tên thay cho địa chỉ số của máy tính trên mạng kết
      nối với ARPANET. Trước năm 1982, bất kì máy tính nào kết nối tới mạng
      đều cần phải có một file HOSTS.TXT có thể truy hồi từ một máy tính tại
      SRI. File này sẽ lập bản đồ của các địa chỉ dạng số. File host vẫn được
      sử dụng ở những hệ điều hành hiện đại để map 127.0.0.1
      về “localhost”. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của mạng máy tính
      đã biến file chỉnh sửa host trở nên vô dụng. Do đó, Paul Mockapetris đã
      sáng tạo ra Domain Name System vào năm 1983 và viết bản
      triển khai đầu tiên. Bản triển khai gốc sau đó được coi như là chuẩn
      IETF và đã được thay thế kể từ thời điểm đó. Triển khai Unix đầu tiên
      của DNS được hoàn thành vào năm 1984 bởi Douglas Terry, David Riggle,
      Mark Painter, và Songnian Zhou ám chỉ BIND server (Berkeley Internet
      Name Domain). BIND sau đó đã được nhập vào Windows NT đầu năm 1990.

      DNS Cache Poisoning


      Tương tự với những cấu trúc Internet cơ
      bản khác, Domain Name System ban đầu cũng không được thiết kế bảo mật
      cho lắm. DNS cache poisoning là thuật ngữ được dùng để miêu tả dữ liệu
      hoặc bảo mật trong DNS bị xâm hại. Sự xâm phạm xảy ra khi dữ liệu được
      giới thiệu tới DNS cache không xuất phát từ hoặc bắt nguồn từ nguồn DNS
      hợp lệ. Điều này có thể là bởi mã độc tấn công hay từ DNS cache xấu hoặc
      DNS cấu hình sai. Một khi DNS Server nhận được thông tin không hợp lệ
      và cache vào cơ sở dữ liệu, sau đó nó sẽ cho thông tin xấu này là độc
      hại. Ít nhất, server bị nhiễm độc sẽ chuyển người dùng cuối tới những
      trang web họ không muốn. Trong quá trình mã độc tấn công, họ có thể bị
      chuyển hướng tới những trang web chứa mã độc được thiết kế nhằm phá hoại
      máy tính khách hoặc tới những trang dành riêng để lấy cắp thông tin
      hoặc tiền của người dùng.

      Hướng dẫn xóa DNS DNS3

      Ngăn chặn DNS Cache Poisoning


      Rất nhiều vụ tấn công DNS cache
      poisoning truyền thống bị chặn bằng cách giúp DNS server tin tưởng những
      thông tin đi qua nó bằng những DNS Server khác. Điều này có thể hoàn
      thành bằng cách bỏ qua bản ghi DNS sẽ quay trở về server đang có yêu cầu
      không liên quan tới truy vấn. Phiên bản hiện tại của BIND tập trung vào
      tấn công mã độc bằng cách này. Thêm vào đó, triển khai cổng nguồn ngẫu
      nhiên cho DNS request (biến các yêu cầu trở nên khó bắt chước hơn) cùng
      với việc sử dụng số mã hóa bảo mật ngẫu nhiên để chọn cổng nguồn và ngay
      lúc đó sẽ giảm được đáng kể khả năng tấn công của DNS. Secure DNS hoặc
      DNSSEC là sáng kiến hiện tại đang được triển khai một cách chậm rãi để
      giải quyết hoàn toàn vấn đề DNS cache độc bằng cách sử dụng chữ ký điện
      tử và xác nhận công cộng để công nhận tính hợp pháp của dữ liệu.

      Những lỗi phổ biến với DNS


      Có rất nhiều vấn đề xảy ra với DNS có
      thể phát sinh ở cấp độ người quản trị mạng hoặc người dùng cao cấp. Tuy
      nhiên, đối với người dùng cuối, vấn đề chủ yếu của DNS nảy sinh do họ
      cấu hình sai hoặc nơi lưu trữ DNS trên máy tính cục bộ yêu cầu dọn dẹp.
      Không phụ thuộc vào loại hệ điều hành, rất nhiều người dùng máy tính gia
      đình sẽ nhập sai DNS Server của nhà cung cấp dịch vụ họ đang sử dụng
      dẫn tới việc kết nối Internet gặp trục trặc. Mỗi nhà cung cấp dịch vụ
      lại có quá trình cấu hình riêng và địa chỉ IP của DNS Server cho mạng
      cục bộ sử dụng được cung cấp trong hợp đồng. Rất nhiều trường hợp nhà
      cung cấp sử dụng địa chỉ DNS Server chính của mình, cho dù nó cùng địa
      chỉ với Gateway IP hay không (cũng như địa chỉ IP của router).